CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 6

NGẬM
NGẢI TÌM TRẦM.
Tác giả: Thanh Tịnh.


Hôm ấy chúng tôi
vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Trời để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ.
Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm lắm đoạn phải lội qua suối nước lên quá lưng
quần.

Chúng tôi đi một dây dài cho có
vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước
là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa,
phía sau tôi là hai người cầm “ra lông” và “mia”. Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường
nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi. Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng
Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc
lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu.
Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng
sững, oai nghiêm như một vị linh thần. Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng
đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành
đồi.

Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ
ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng
phẳng.

Chung quanh nền nhà có mấy thanh
sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai
cây sắt đã dỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng
rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất
sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường
xưa…?

Tôi đang phân vân muốn biết
chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và
cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:

“Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về
làng Thanh Mỹ thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế
của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ
cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy. Ðồ ăn phần nhiều
là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi
để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành
thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày
hai bữa. Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn
nguyện

Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác
Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở
Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong
nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi
tìm trầm. Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi
phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là
chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm. Muốn
tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải. Theo lắm người kể chuyện, ngải
là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây
ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải
đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn
tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn.
Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ
ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.

Ngải
lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì
không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy
mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu
không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ
thật.

Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ
dân ở các dải núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu
chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay
cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người
nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng
thẳm núi cao.

Bác Diệm trai vào rừng đã
gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để
chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác
chỉ đi trong một vài tháng là nhiều. Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không
biết làm sao được. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ
bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông
đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé
trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà
nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát. Nhưng dải núi thì cao và hùng vĩ quá,
không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê
được.

Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu.
Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ
nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm
rứt.

Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất
nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm
gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung
chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập
cập.

Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt
trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im
lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là
chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng
khấp khởi. Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại.
Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng
của loài người.

Tuy sợ nhưng lòng bác
Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen
liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom.
ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị
lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một
manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy… Thôi rồi! Chồng bác đã
gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi… Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái
bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp
mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm
gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía
sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào, chết ngất.

Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình
đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua,
dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm
chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo
dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm
gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:


Dân xóm có đánh người ấy à?

Một ông lão
đáp:

– Không, chỉ doạ thôi. Thật ra
cũng không ai dám đến gần hắn.

Bác gái
nói thầm như để một mình nghe:

– Chồng
tôi đó!

Nói xong bác ứa nước mắt thở
dài một cách ngao ngán.

Luôn mấy đêm
sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên
không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng
rú.

Qua tháng sau, một buổi chiều, bác
xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng
chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên.
Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy
không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng
ngay.

Bác Diệm trai muốn vuốt ve con,
nhưng tay bác sờ đến đâu, áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra
móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi.

Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân bác Diệm liền thè
lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng
chao ôi, cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú. Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi.
Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái, tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá,
liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng
lông đầy người và mầu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh
trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la
tiếp.

Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm
liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng.
Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa
ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào
vây quanh nhà bác Diệm gái. Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà
nữa.

Nhưng qua mùa xuân sau, cũng một
đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên
đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà. Trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm
sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người – không, một con vật thì đúng hơn –
chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác.
Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ… Bác ôm mặt khóc rất thê thảm.
Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe
lạnh và buồn.

Ðoạn con vật quay mình
lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh
nhạt.

Dãy núi Truồi từ đó đã
như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn
lâm.


THAM KHẢO THÊM.

BÍ ẨN TRẦM
HƯƠNG 
Bài 1
: VÀI DÒNG LỊCH SỬ.


(Ông Nguyễn Phúc Ưng
Viên)
Trên thế giới, giá bán cao
nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ nam thì lên
đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách
nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hương vốn không bao
giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt
chủng chỉ trong vòng 35 năm.
 So với giá cả trên mây
xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới mặt đất. Người ta biết quá ít
về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại
2 tài liệu, xưa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ
Tất Lợi. Còn tài liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây
dó, liệt kê các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ
trầm được hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc
đến như vậy.
“Trong đau thương dó
biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ
sinh tồn của đời người. Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị
một vết thương (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn…), xung quanh vết
thương đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay
người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thương,
cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều người đã trồng dó
và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm nhân tạo có mùi thơm của
trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù mờ.
Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự
liên tưởng về cái “đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân
dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí
ẩn.
Đó là ông Nguyễn Phúc Ưng Viên.
Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng Viên gọi vua Minh Mệnh
bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm
Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị:
ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên
trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng
họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.
Ông Ưng Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh
cứu người. Từng có thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng
ông không theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam – xin lưu ý là thuốc
nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả
đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ
mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh sôi phát triển mà mở
rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu người, dân tộc đó ắt phải biết cách
phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng
150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết người hàng loạt,
còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến
nhiều người chết không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch
thì không.
Cây trầm ở độ cao 1.500m trong
dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông
Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m – Ảnh: Ưng
Viên
Ông cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo
từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho
Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy
thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.
La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng
nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc chừng nào
vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.
Tổ chức Y tế thế giới ngày nay
cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn – dược liệu hữu ích của
các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo Spirulina
từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.
Tôi phải giới thiệu sơ qua một
chút “lý lịch” của ông Ưng Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của
con người này,  mà vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ông.
Mọi người đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên
dù là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ và hỏi
thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải
nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn
Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.
Có những cuộc tương ngộ làm nên
lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên
một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời khuyên nổi tiếng
“Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với Nguyễn
Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo toàn để cho Việt Nam có thêm một
nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên
một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ
cho biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu
nước thương dân, là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên
tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều
đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng
đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các
bậc đế vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn
còn là sự bí ẩn của lịch sử.
Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên
đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt dê
ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu, nhưng nó còn
ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa
Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị.
Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân
chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn
dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như
trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa
ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ
ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến
thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo
vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong
đó có chuyện “dụng trầm”.
Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có
thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức
rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua Thành
Thái, thuộc  hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu cho các nhà
hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng Viên cho hay ông
Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm rượu, chính ông đã làm
rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn
3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được
70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất
truyền cả, chỉ có điều là chúng không được truyền ra ngoài.
Còn việc dụng trầm
thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn
đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ
quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu
hiệu bảo vệ triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di
sản dụng trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng
không truyền ra ngoài. 

Bài 2: ” THIÊN THỌ
ĐỊA CHI KHÍ…”
Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra
hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được. Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một
loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức
hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…


Trầm
hương sinh ra từ cây dó (cá biệt cây xương rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong
thiên nhiên có nhiều loài dó, nhưng theo ông Ưng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới
cho ra thứ trầm có thể chữa bệnh được.
Trên thế
giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6 nước: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar,
Indonesia, Malaysia, trong đó trầm Việt Nam có dược lý tốt nhất, những nghiên
cứu khoa học mới đây về trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng
xác nhận trầm Việt Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không
có.
Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng
Phú Yên, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Ninh Thuận, đây chính là “quê hương” của trầm, loài
người phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này. Trước đây, từ Việt Nam, trầm
được dùng làm cống phẩm đưa sang Trung Quốc. Trong các cống phẩm, trầm hương là
thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất được cống theo để “hướng dẫn
cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hương đã theo con đường tơ lụa sang Trung Cận
Đông, Địa Trung Hải…
“Thọ thiên địa chi khí, tẩy
vũ trụ chi trược, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ dương, thị là
thế thượng trân chi giả…”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hương trích trong
sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ưng Viên đọc cho tôi nghe, tạm
dịch: “Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi thứ ô uế trong không gian,
có tác dụng giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, chữa các bệnh về
tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch (chỉ tả bổ dương – nghĩa rộng), chính là
thứ trân quý nhất”.
Trầm có thể được sử dụng trong
cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhưng trước hết hãy nói về “thọ thiên địa chi
khí”.
Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng
có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ 1.000 đến 1.500 cây mới có một cây
có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một cây có kỳ nam.
Khi cây dó bị một vết thương, vết thương đó phải đọng nước
qua một mùa mưa, cây dó mới bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thương để
tự vệ. Người ta thấy nhiều cây dó cho trầm chi chít những mắt trên thân cây,
những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng đục vào thân cây, dân
gian gọi nó là con bọ xòe.
Khi chất nhựa dần dần
trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này. Đó là một
loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.
Chính
những con kiến kia mang theo các phân tử trầm hương (một loài nấm) vào “cấy”
trong lớp nhựa. Loài nấm này tương tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dưới tác
động của khí hậu bên ngoài và sự tương tác diễn ra trong một thời gian rất dài
mới sinh ra trầm, tương tác càng lâu trầm càng có giá trị. Thông thường, cây dó
phải có tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra một thứ trầm có giá trị chữa
bệnh.
Về giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm
vào cây dó, ông Ưng Viên lưu ý không phải kiến cao cẳng nào cũng làm được điều
này. Phải theo dõi rất nhiều năm mới phát hiện ra, chúng không bao giờ làm tổ
trên những cây trầm. Đây là giống kiến rất quý về dược liệu, trứng của nó rang
lên có thể chữa được chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7, số 21).
Trứng của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dược liệu của ông Ưng
Viên.
Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con
kiến đó, ông lắc đầu từ chối: “Tuyệt đối không nên đăng ảnh của nó lên trên báo,
đăng lên là nó bị người ta tận diệt ngay. Người của tôi đi lấy trứng kiến, mỗi
lần lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”. Ông
Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhưng tôi không dám ghi ra đây
vì cũng sợ chúng sẽ bị… tuyệt chủng.
Quá trình
hình thành trầm hương theo một “cơ chế” tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng thật
ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên người xưa nói “thọ thiên địa chi khí” là đúng nhất.
Con người đã khẳng định hương trầm là “vua của các mùi hương”. Hàng ngàn năm nay
trầm được xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ nghi thiêng liêng của
các tôn giáo. Nó là “danh hương” trong các nghi lễ tôn giáo.
Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát
hương ra không gian, nhưng chỉ có trầm là thứ mà nguồn phát ra hương không bao
giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi đem ra chế tác, lưu giữ. Người ta
phát hiện các mảnh trầm nằm dưới đáy các giếng cổ Chămpa, qua hàng ngàn năm mà
khi lấy lên hương thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày nay trầm còn được dùng làm chất
định hương cho mỹ phẩm, nước hoa Chanel No.5 và các thứ nước hoa nổi tiếng khác
trên thế giới không thể không có trầm hương.
Hương
trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể
phân biệt được (riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng
cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát
hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau, thay đổi theo
thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi thì mùi hoa hồng, khi thì vani, khi thì mùi
gỗ thông, khi thì mùi xạ hương… Điều lạ lùng nữa là trong những thời điểm
giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm hương cũng thay đổi.
Điều này khoa học chưa đủ khả năng giải thích. Một nhóm nhà
khoa học Nhật Bản đã thử làm khảo cứu phân biệt hương thơm của một số
sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu trầm và nhận thấy có khi chỉ vì vị
trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi
hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia
phảng phất hương bạc hà.
Bốn chất đồng phân
neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn
khác nhau ở hướng các nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến
sĩ Võ Quang Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ
mới biết tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” như vậy thì khoa học đành chịu,
ở đây vẫn là quá trình “thọ thiên địa chi khí”. (còn tiếp)
Trích dẫn
Ông Ưng Viên còn lưu
ý: Trầm hương và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi của trầm. Một cây
dó có trầm dù lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngược lại
một cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng được tương tác bởi
hai loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá mắc tiền vì từ
lâu nó được con người sở hữu như một “linh vật”, nhưng giá trị chữa bệnh và ứng
dụng trong đời sống của kỳ nam thì không bằng trầm.
Bài 3:
DỤNG TRẦM…
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo
3 con đường: xông, uống và ăn.
Trầm trong thiên
nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chướng, làm trong sạch môi trường
sống. Người xưa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi
trược”.

Khử uế
một cách triệt để
Tính chất “tẩy vũ
trụ chi trược” có thể đem áp dụng để khử uế. “Khử uế một cách triệt để, ngoài
trầm hương không thứ gì giải quyết được”, ông Ưng Viên khẳng định. Và tôi được
biết một câu chuyện thú vị.
Vào năm
2008, một tàu của Mỹ chở thuê hải sản tải trọng 1 vạn tấn, khi cập cảng Nhà Bè
(TP.HCM), cảng vụ phát hiện tàu bị ô nhiễm nặng (mùi hôi thối quá mức), nên
không cho phép xuất cảng vì theo quy định quốc tế thì tàu phải được xử lý ô
nhiễm mới được rời khỏi cảng. Kỹ thuật khử uế của người Mỹ trên tàu không giải
quyết được. Cảng vụ phải mời các chuyên gia của một viện từ Hà Nội vào xử lý
cũng không xong.
Người phụ trách công
việc ở cảng có quen biết với ông Ưng Viên nên mời ông thử xử lý giúp. Ông Ưng
Viên đồng ý, với một điều kiện: các thủy thủ phải uống một thứ rượu có pha…
nguyên liệu xử lý tàu. Quá khiếp với điều kiện này, nhưng thấy người ở cảng
“gương mẫu” uống trước, các thủy thủ cũng uống.
Chỉ sau 1 ngày 1 đêm, ông Ưng Viên đã giúp xử lý sạch con
tàu bằng hai phương pháp: nửa phun, nửa xông. Các thủy thủ vô cùng kinh ngạc về
kết quả trên đã gọi điện cám ơn ông rối rít và vui mừng cho biết sau khi uống
thứ rượu đó sáng ngủ dậy trong người lại khỏe ra. Rượu đó chính là rượu pha
trầm. Còn thứ nước phun xử lý tàu thì vẫn còn 60 lít họ xin được mang
theo.
Kể lại câu chuyện này với tôi,
ông cười nói: “Tôi cho họ mang về 60 lít nước đó, nhưng chắc chắn họ không thể
phân tích được nó có những chất gì”. Phương pháp của ông là di sản gia truyền
“Bí mật quân lương và khử uế tàu chiến” của cung đình nhà Nguyễn. Chất liệu căn
bản của nó là trầm hương và trà.
Tác
dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe
Trầm
có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống
và ăn.
Về y lý, hương trầm xông lên
có tác dụng điều khí, rất tốt cho sức khỏe. “Xông hương trầm thường xuyên không
bị máu đông ở động mạch, phổi không bị nghẽn, xoang không bị viêm, không u bướu,
không liệt dương liệt âm lãnh cảm…”, ông Ưng Viên vừa nói vừa đưa tôi tới gần
bình xông trầm đang ngát hương. Cái bình xông trầm này do ông cùng 2 kỹ sư người
Nhật và Đài Loan nghiên cứu chế tạo, nguyên liệu được lấy bằng thứ cát đặc biệt
tại Nha Trang ở độ sâu 20 mét. Bình xông trầm hiện nay trên thị trường có thứ
của Nhật, có thứ của Hàn Quốc, có thứ của Trung Quốc, Đài Loan, xông bằng những
cái bình ấy có thể giải phóng được 50% hương trầm, còn bình xông của ông có thể
giải phóng được 95%.
Ông Ưng Viên tỏ
ra bức xúc về vấn nạn sức khỏe do môi trường ô nhiễm hóa chất và thức ăn công
nghiệp hiện nay khiến cho các bệnh về hô hấp và tiêu hóa gia tăng. Hai phương
thang: Ôn tì bình vị (gồm trầm, xuyên bối mẫu, toàn quy, thăng ma, bạch truật…)
và Kiện tì tiêu thực (gồm trầm, xuyên khung, bạch truật, toàn quy, liếu tiếu
thảo…) có thể giải quyết triệt để các bệnh này, không tái
phát.
Các thang “Thanh khí ôn phế”,
“Điều huyết dưỡng khí”, “Nhứt dâm cửu dựng”, “Ôn dương cố thận”… như tên gọi của
chúng, chữa những bệnh về đường hô hấp, khí huyết, bổ dương… đều dùng trầm làm
vị chủ. Ông Viên không coi trọng những bài thuốc “tráng dương”. “Tráng dương”
thì nhất thời. “Bổ dương”, “ôn dương” mới là sự bền vững, mà chuyện này thì
không thứ gì qua nổi trầm.
Việc dụng
trầm của ông Viên hình như đạt đến độ xuất thần nhập hóa. Như trên đã nói, trong
những giờ khác nhau trầm tỏa ra các mùi hương khác nhau. Chỉ riêng việc lấy trầm
từ cây trầm ra để chế biến cũng được thực hiện vào những thời khắc thích hợp,
tùy theo khí hậu, loại bệnh và đặc tính của từng người bệnh. Ngay cả trong
chuyện đơn giản hơn như ẩm thực, ông cũng áp dụng các nguyên tắc
này.
Ông nói cũng là thứ rau húng
trồng trong một vườn rau nhưng có khi ăn thấy ngon, có khi ăn không thấy ngon.
Vì sao vậy? Vì rau ăn không ngon là do hái không đúng giờ. Rau húng phải hái vào
lúc 5 – 6 giờ sáng hoặc 5 – 6 giờ chiều thì ăn mới ngon, vì những thời điểm đó
rau tiết ra những chất tốt nhất, còn các giờ khác thì rau tiết ra một số chất
xấu.
Sự trải nghiệm với trầm của ông
Ưng Viên còn thể hiện ở lượng trầm mà ông đang có. Hơn 30 năm nay ông đã dùng
hết tài sản và đi vay mượn để tích lũy cả một kho tàng: Hơn 60 tấn trầm và kỳ
nam, gồm 36 cây trầm lớn, bình quân mỗi cây gần 2 tấn, mật độ ăn trầm từ 60-80%.
Những cây trầm ông giữ đều được lấy theo đúng nguyên tắc: tất cả đều đã chết rũ
trên rừng, vận chuyển về đều hợp pháp, có dấu búa kiểm lâm. Phần lớn những cây
trầm ông đang có là độc nhất vô nhị, không còn tồn tại trong thiên
nhiên.
Nhà ông ở TP.HCM có một xưởng
chế tác trầm, có một “đội thợ trầm hoàng tộc” – là hậu nhân của các thợ trầm
cung đình khi xưa giúp việc. Ông và những người thợ tạc những cây trầm thành các
tác phẩm nghệ thuật để lưu giữ lại cho con cháu, ông chưa hề bán và sẽ không bán
một kg trầm nào. Ông dùng lớp vỏ sát lõi có nhiễm tinh dầu trầm và kỳ nam để làm
thuốc, đó là phần làm thuốc tốt nhất. Lớp ngoài nữa, nhiễm tinh dầu ít hơn, ông
dùng làm nguyên liệu cho nồi xông chữa bệnh. Lớp ngoài cùng dùng làm
hương.
Tôi nhiều lần được đến xem
xưởng trầm của ông, nghe ông giới thiệu xuất xứ của từng cây trầm và đặc tính
của từng loại trầm. Ở đây có đủ các loại trầm, các loại kỳ nam. Tôi hỏi ông, ông
Lê Quý Đôn nói đốt trầm lên thì khói xoáy rồi sau mới tan, còn đốt kỳ nam thì
khói lên thẳng và dài, nói như vậy có đúng không. Ông cười, bảo rằng nhà bác học
Lê Quý Đôn rất giỏi nhưng ông ấy không có cơ hội tiếp cận đầy đủ với “hiện vật”
nên vừa đúng vừa sai.
Khói vút lên
thẳng như sợi dây là đúng, nhưng chỉ đúng với kỳ nam hương thôi, còn các loại kỳ
nam khác thì khói vẫn xoáy. Ông vừa nói vừa chỉ vào một cái hốc của cây trầm cao
to trong xưởng đã tạc thành tượng, ở đó lộ ra một cái lõi to và dài màu vàng
sậm: “Kỳ nam hương là thứ này đây, chỗ này ít nhất cũng vài chục kg”. Kỳ nam
hương giá rẻ hơn các loại kỳ nam khác, khoảng 2 – 3 tỉ đồng trên thị trường thế
giới, nhưng có giá trị chữa bệnh tốt nhất trong các loại kỳ nam, tuy kém thua
trầm.
Trích
dẫn
Trầm kết hợp với thịt dê –
ngọc dương, nghệ vàng, nghệ đen, măng tre (vắt lấy nước), nước gạo rang … ăn vào
có thể làm sáng mắt, thính tai, trị chứng đau nhức. 
Trầm kết hợp với chè, có thể ngừa và trị được các “mắc
mứu” ở phổi, đường hô hấp, tim mạch, tiêu hóa. 
Trầm làm rượu, uống vào sáng mắt, trị viêm họng, đau dạ
dày, nghẽn động mạch tim, làm mạnh thần kinh cơ bắp. 
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng có thể trị triệt để các
bệnh về tiêu hóa của trẻ nhỏ. 
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng cộng thêm với chè có thể
chữa kiết lỵ, tiêu chảy, thương hàn. 
Trầm kết hợp với trúc nhự (dịch măng tre) có thể chữa
chứng cành hông, làm tiêu hóa không bị xáo trộn. 
Trầm kết hợp với ma hoàng trị được các bệnh phụ
khoa. 
Trầm dùng trong thang
“Diệc nhan minh mục” (kết hợp với các thảo dược khác) làm cơ thể trẻ lại, mắt
sáng ra. 
Bài 4: HÃY CỨU NHỮNG CÁNH RỪNG
CÓ TRẦM
Hiện nay,
dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã
khai thác hết trầm, người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về
nấu dầu xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu
trầm…
(Ông Ưng Viên giới thiệu một đoạn gỗ
trầm )
Ông Ưng Viên có quan điểm y học khá độc
đáo: trị bệnh là trị riêng cho từng người, không có thứ thuốc sản xuất hàng loạt
nào có thể hoàn toàn chữa đúng bệnh. Cùng một thứ bệnh, nhưng ở người này có
biểu hiện khác với người kia. Cùng một loại vi khuẩn, khi xâm nhập vào cơ thể
người này sẽ cho triệu chứng khác với khi xâm nhập vào cơ thể người khác. Chẩn
đúng bệnh và cho đúng thuốc, là quan điểm chữa bệnh nhất quán của ông.
Ông Ưng Viên kế thừa y lý chân truyền của dòng họ, ông cũng
được tiếp thu những tài liệu y học cổ truyền Trung Hoa từ thời Hán – Đường. Các
phương pháp “chân truyền” và những sách vở về Đông y đang được lưu hành nhiều
khi rất khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Sở dĩ có tình trạng như vậy, là do tương
truyền vào thời cuối nhà Thanh, khi phương Tây tấn công Tử cấm thành, triều đình
sợ những tài liệu của tổ tông của họ bị “lọt vào tay địch” nên cất giấu đi, thay
vào đó là những quyển sách được “viết ngược”, tức là y lý đã bị đặt lộn tùng
phèo, giống như Hoàng Dung đã chép lộn ngược Cửu âm chân kinh giao cho Âu Dương
Phong để ông này luyện mà tẩu hỏa nhập ma trong truyện của Kim Dung. Các danh y
trong lịch sử thường được sư phụ trực tiếp truyền thụ, vì những bí quyết thực sự
không bao giờ nằm trong các sách vở trôi nổi. Thầy phải chọn trò có tư chất, có
tư cách để truyền bí quyết.
Trong các bài thuốc
của ông bao giờ cũng có hai vị căn bản: trầm và… tre. Ông bảo cây tre có giá trị
y học không kém gì trầm. “Không có bài thuốc nào tổ tiên tôi để lại mà không
dính tới cây tre”, ông quả quyết.  Ngay cả tre ngâm bùn cũng có thể làm thuốc
chữa được chứng hoại tử. Theo ông, trầm và tre là hai thứ bảo đảm nền tảng cho
sức khỏe. Nguyên lý của tre: điều hòa khí mạch; nguyên lý của trầm: điều khí
bình huyết.
Ông khuyên tôi nên viết nhiều về cây
tre, còn đối với trầm thì viết in ít thôi, vì trong một thời gian dài báo chí
quá đề cao sự mắc tiền của nó nên đã góp phần dẫn đến sự tuyệt chủng của trầm.
Tôi hiểu sự bức xúc của ông.
Trích
dẫn
Ông cho rằng, hiện nay các bệnh viện
nhi mỗi ngày có rất đông bệnh nhân bị bệnh về khí phế quản và tiêu hóa, nếu
phương thuốc giản đơn của dân tộc từ trầm được thẩm định để đưa vào chữa bệnh
thì chi phí có thể giảm được đến hơn 90%. Ông chỉ cho tôi một cây trầm cao
khoảng 2 mét, đường kính khoảng 20 cm dựng trong xưởng trầm nhà ông và nói: “Nếu
mỗi ngày chữa cho 10 người bệnh thì phải 100 năm mới hết cây trầm này. Thực ra
dùng trầm để chữa bệnh như dùng muối nêm vào canh, không tốn nhiều tiền mà hiệu
quả. Vấn đề là xã hội phải thay đổi cách phòng và chữa bệnh, biết tận dụng các
phương pháp hiệu quả mà cha ông ta đã trải nghiệm hàng ngàn năm nay”.
Nhưng dù dùng trầm “như muối nêm” thì cuối cùng nó vẫn hết
nếu không có cách khai thác phù hợp. Cho nên vấn đề cấp bách nhất là phải nhanh
chóng chặn đứng sự tàn phá để giữ và khôi phục những gì còn sót lại trên những
cánh rừng có trầm.
Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ
cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã khai thác hết trầm,
người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về nấu dầu xuất khẩu. Cứ
băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu trầm, để bán lấy 15.000 – 20.000 USD
một lít, người ta đã hủy diệt gần xong một nguồn tài nguyên quý giá của dân tộc.
Trữ lượng dó bầu tự nhiên hiện còn không nhiều và chỉ có ở độ cao trên 1.000
mét. Tại độ cao đó cây dó mọc rất thưa, hiện tượng ăn trầm ít.
Theo ước tính của ông Viên, nếu như Nhà nước có biện pháp
cứu những rừng có dó, lệnh cấm rừng được thực thi triệt để, 50 năm nữa thiên
nhiên mới có thể tái tạo lại rừng có trữ lượng dó bằng khoảng 23 – 35% của thời
kỳ trước năm 1975. Cùng với việc cấm rừng, phải cấm triệt để việc xuất khẩu trầm
tự nhiên theo CITES (Quy ước thương mại quốc tế về những loài động vật và thực
vật hoang dã lâm nguy).
Ngày xưa, mỗi năm chỉ duy
nhất một lần, nhà Nguyễn chọn những người có hiểu biết, có tư cách để cho vào
rừng khai thác trầm trong vòng 1 tháng, luật của triều đình chỉ cho phép lấy
trầm tại những cây dó đã chết rũ, tuyệt đối cấm lấy trầm trên những cây còn
sống. Điều đáng lưu ý là sau này khi người Pháp sang cai trị nước ta, quy định
đó của nhà Nguyễn vẫn được áp dụng một cách nghiêm ngặt. Bởi vậy mà dù các rừng
trầm hàng ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn, nhưng người dân mỗi khi cần vẫn có trầm
hương để dùng với giá không quá mắc.
Con người
hiện tại là những kẻ kiêu ngạo với thiên nhiên, nên cái giá phải trả là rất đắt.
Đã đến lúc chúng ta nên tỏ ra khiêm tốn. “Thiên nhiên sẽ tha thứ nếu con người
biết phục thiện”, ông Ưng Viên nói.
Trích
dẫn
Ông Ưng Viên lưu ý: Trên thị trường cả nước
hiện lưu hành 4 loại trầm là trầm dó bầu, trầm dó dây, trầm niệt (còn gọi là
trầm nghiệt), giả trầm hương. Trong 4 loại đó, chỉ có trầm dó bầu mới có giá trị
trong chữa bệnh. Nhưng phân biệt giữa chúng là rất khó, phải có kiến thức mới
biết được. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác để tránh tiền mất tật mang.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *