CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 2

DỊ
THUẬT KÝ.


Mọi người đều nói rằng hiện giờ đã tới thời mạt pháp. Mà đã
là mạt pháp thì trước tiên sẽ phải là tà ma ngoại đạo quấy nhiễu chúng sinh để
cho các chính đạo tu sĩ có cơ hội trảm yêu trừ ma. Thấy mọi người trên diễn đàn
ai cũng là nhân sĩ chính đạo hết nên mình xin nhận làm vai bàng môn tả đạo một
phen.

Hiện trên diễn đàn các loại kỳ
công tâm pháp, bùa chú ngải nghệ đều được giới thiệu hết rồi, nhưng các dị thuật
thì lại ít thấy nên mình xin góp một phần nhỏ kiến thức mong rằng có thể mua vui
một vài trống canh trước mặt các bậc cao nhưn.


Kỳ 1: Nguyệt Thần Hộ Bảo


“Nguyệt thần hộ
bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau
giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu như ai cũng nghe nói về tác
dụng của dị thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết
đến.

“Nguyệt thần hộ bảo” tên như ý
nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, được các tu sĩ người Hoa áp
dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc người Hoa định cư tại Việt Nam,
vì nhiều lý do phải hồi hương gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn
giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở
lại Việt Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.

“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “người” hộ bảo
được gọi là “Nguyệt thần”.

Để tạo ra
Nguyệt thần, các tu sĩ người Hoa liền đi khắp nơi trên nước Việt chọn lấy các
trinh nữ tuổi khoảng 12, 13 (Được gọi là “Nguyệt thước” – Mầm gạo Nguyệt) để chú
thuật nuôi dưỡng cho đến khi “Nguyệt thước” thành thục thì mang tới kho tàng
tiến hành hoàn tất pháp thuật.

“Nguyệt
thước” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn
theo Bát tự một cách quy luật. Tương truyền, trong các loại “Nguyệt thước” có
hai loại linh nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ
nhất:

1, Canh Kim Nguyệt Thước: Đây là
những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim, năm Kim, mệnh Kim ngũ cục.
Đặc biệt nếu trên người có khí chất vương giả hoặc khí chất của gia đình võ
tướng thì càng thêm hiệu quả.

Canh Kim
Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn gọi
là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất,
phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vương
giả.

2, Huyền Âm Nguyệt Thước: Đây là
những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm, năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục.
Đặc biệt trên người có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan, hoặc khí chất
đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu
quả.

Huyền Âm Nguyệt Thước sau khi
thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn gọi là Huyền Âm Sát) là
một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về che dấu, phù
hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thương phú khả địch
quốc.

Sau khi đã “Tuyển thước” thành
công, thì chuyển sang “Dưỡng thước”.

Quá trình “Dưỡng thước” là việc các tu sĩ người Hoa dùng
dược liệu nuôi dưỡng “Nguyệt thước”, dạy cho các “Nguyệt thước” một loại công
pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật” và bắt “Nguyệt thước” phải tu luyện đến
đại thành trước năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên cơ thể “Nguyệt thước” các
loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.

Những “Nguyệt thước” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên
thần hoá âm thuật” trước năm 15 tuổi) sẽ được lựa chọn một lần cuối để chọn ra
“Nguyệt thước” có khí chất tốt nhất, đồng thời được đưa đến kho tàng đúng vào
năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”

Kho tàng, vốn cũng được các thuật sĩ người Hoa lựa chọn
trước tại những nơi có hoàn cảnh phong thuỷ đặc biệt và khó phát
hiện.

Tại kho tàng, trước khi bắt đầu
nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thước” (Giai đoạn hiện tại còn có thể gọi là
“Nguyệt sát”) được tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời được cho
ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống
của “Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc
(Được gọi chung “Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.

Lúc này “Nguyệt sát” sẽ được khống chế không thể di động, và
được đặt vào trong trận pháp tương ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau
đó thì trận pháp được khởi động bằng tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào
động, vận chuyển báu vật mang vào trong động. Đồng thời cũng là một cách giữ bí
mật vị trí của bảo tàng mà người Hoa hay dùng.

Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dược,
chướng khí (tuỳ bảo tàng và thuật sĩ) cũng sẽ được khởi động (hoặc tự khởi động)
vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo tàng (cửa động) được phong
kín.

Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia
người Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh phù phù hợp với pháp trận
của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá giải cơ quan bẫy
rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận” mở ra
trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày –
thường gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo
vật.

Nhàn đàm: Thực tế, việc
lựa chọn “Nguyệt thước” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa chọn nơi chôn
bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của “Nguyệt
thần hộ bảo” là Bí thuật “dưỡng thước”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”,
“Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật
lệnh”

Kỳ 2: Chiêu Tài Thánh
Nữ

 “Chiêu
tài thánh nữ” cũng là một dị thuật có công dụng khá nổi tiếng ở Việt Nam trong
thời kỳ sau giải phóng, cuối thời kỳ bao cấp. Vì một vài lý do, nó chỉ được thực
hiện một cách ngấm ngầm, do một số ít người có đủ khả năng về tiền bạc, quyền
thế… có thể làm được mà không sợ bị tóm.
 Cũng giống như “Nguyệt thần hộ bảo”, ngay cả trong thời kỳ
toàn thịnh nó cũng chỉ được biết đến với công dụng là chính mà danh tự thì hầu
như rất ít người biết (trừ những đại gia đã từng thực thi dị thuật này). Và vì
vậy, những câu truyện nói về nó càng lúc càng sai lệch đi rất nhiều. Một trong
những dị bản sai lệch đó và được biết đến nhiều nhất là việc các đấng mày râu
truyền tụng về việc ngủ với gái trinh thì việc làm ăn sẽ may
mắn.
 Thực tế “Chiêu tài thánh nữ” có
thể coi như là một danh hiệu dùng chung, bởi vì  mục đích của dị thuật này là
giúp cho thân chủ có thể “Chiêu tài” và có rất nhiều môn phái, tu sĩ có được và
có thể thực thi loại phép thuật này (Tất nhiên là hình thức thì đa dạng và hiệu
quả thì cũng không đồng nhất).
 Ở
đây, tôi nhấn mạnh chữ “Chiêu tài” là mong người đọc không phải nhầm lẫn giữa
Chiêu tài và Cầu tài.
Cầu tài là bằng
vào bí thuật tăng lên vận số để trong hồng trần mênh mang có thể có nhiều hơn cơ
hội nắm được duyên tài lộc. (Hay ví dụ một cách đơn giản thì cầu tài giống như
là tăng tỷ lệ đạt được giải độc đắc trong việc đánh sổ xố
vậy).
Tuy nhiên, dù cầu tài thuật có
cao minh đến cỡ nào đi nữa thì tối đa cũng chỉ khiến cho người được thi thuật có
được 50-50 cơ hội nắm bắt được duyên tài lộc mà thôi (Đây là trường hợp lý tưởng
nhất, thông thường thì ít hơn rất nhiều).
Hơn thế, thường thì bí thuật cầu tài thường để lại những hậu
quả lớn cho thân chủ bởi vì vận số của con người nói thật cũng chẳng phải dễ
dàng tăng lên như thế (dù chỉ là trong thời gian ngắn cố định hay cơ hội lý
tưởng tối đa là 50-50).
Thuật “Chiêu
tài” thì lại khác (hoặc có thể nói là một loại thuật Cầu tài cao cấp hơn), bởi
vì thứ nhất kết quả “Hoạch tài” (Lấy được tài lộc) trực tiếp hơn rất nhiều, thứ
hai phần “báo ứng” cũng đến chậm rãi hơn rất nhiều.
Như đã nói ngay từ đầu “Dị thuật ký” là chuyên nói về những
dị thuật bàng môn tà đạo thế nên “Chiêu tài thánh nữ” cũng không nằm ngoại quy
luật này. Vì sao phải nhắc nhở như vậy? Đó là bởi vì muốn người đọc có thể nhìn
từ góc độ của tu sĩ tà phải (những người sẵn sàng dùng mọi loại thủ đoạn, phép
thuật tổn thương người khác chỉ để lấy được lợi ích cho bản thân) để cùng suy
xét về nguyên nhân có thuật chiêu tài này.
Ở trên đã nói, thuật Cầu tài kết quả luôn không rõ ràng mà
quả báo thì lại gần trong gang tấc. Điều này khiến những tu sĩ tà phái (gọi tắt
là tà tu) gặp khó khăn trong việc thuyết phục các thân chủ, vốn là các đại gia
tinh minh trong chốn thương trường, chính trường quyết định thực hiện thuật cầu
tài và tất nhiên sau đó sẽ đến việc trả thù lao cho mình (có thể là tiền bạc, có
thể là dược liệu…).
“Con người muốn
tăng lên vận số của mình một cách không theo tự nhiên thì phải trả một cái giá
tương tự” đây là một quy luật mà chỉ cần là tu sĩ đạt đến một tầng thứ nhất
định, hoặc những người thực sự có tri thức đều hiểu. Mà cái giá phải trả ở đây
không phải là tiền bạc của cõi tục mà là tinh huyết và dương thọ (Hoặc vận số).
Tuy nhiên, nếu các thân chủ, người mà sẽ nhờ các tu sĩ thực hiện thuật cầu tài
thông thường hiểu rõ được điều này thì sẽ chẳng ai dám thực thi nó
cả.
Vấn đề mấu chốt để đánh phá sự
thất lợi trong việc “Cầu tài” này chính là phải có người hy sinh tinh lực, dương
thọ, hay vận số để đổi lấy “Tài lộc”. Tất nhiên, kẻ phải chịu sự hy sinh này sẽ
không phải là thân chủ hoặc tu sĩ. Vì thế Chiêu tài “Thánh nữ” mới được sinh
ra.
Có rất nhiều dị bản của thuật
“Chiêu tài thánh nữ” tuỳ theo từng môn phái và tu sĩ thực hiện mà bản thân tôi
cũng chỉ tìm hiểu một phần nên không thể kể hết ra đây, mà chỉ xin miêu tả lại
một thuật sử dụng song trọng liên hoàn trận được coi là hoàn mỹ nhất trong các
loại thuật “Chiêu tài thánh nữ”, đồng thời xin giữ nguyên danh tự “Chiêu tài
thánh nữ” cho thuật này bởi vì theo tôi nó cũng xứng đáng có được danh hiệu này
nhất.
Để thực hiện “Chiêu tài thánh
nữ” trước tiên cần phải có “Thánh nữ”
Không như “Nguyệt thần hộ bảo” việc lựa chọn “Thánh nữ”
trong thuật này cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Trọng yếu là phải đáp ứng được hai
điều kiện. ”Thánh nữ” phải là các cô gái đồng trinh, tuổi từ 16-20t (hoặc từ
13-18t), đồng thời “Thánh nữ” phải có bát tự thuận hành với thân chủ. Ví dụ:
Thân chủ sinh giờ Kim, ngày Mộc, tháng Thuỷ, năm Hoả thì “Thánh nữ” sẽ phải được
chọn sinh vào giờ Thổ, ngày Thuỷ, tháng Kim, năm Mộc. (Đây là yếu tố
Nhân)
Sau khi đã chọn được “Thánh nữ”
phù hợp, các tà tu sẽ chọn một địa điểm có phong thuỷ thích hợp để tiến hành bố
trí pháp đàn, trận pháp. (Đây là yếu tố Địa). Tại đây, tu sĩ người Hoa sẽ sử
dụng 108 pháp khí đặc thù “Dẫn Hồn Linh” để bố trí một trận pháp song trọng bao
gồm “Tam Tài Dưỡng Sinh Trận” kết hợp với “Thuần Âm Tế Thiên Trận”. Trận pháp
song trọng này theo bản thảo cổ nhất mà tôi có trong tay được gọi là “Tế Nguyệt
An Thiên Trận”.
Trước một vụ làm ăn
lớn, các tà tu người Hoa sẽ chọn cho thân chủ một ngày, giờ tốt để tiến hành thi
thuật (Yếu tố Thiên). Trước đó, “Thánh nữ” và thân chủ sẽ được cho ăn uống vui
chơi, chay tịnh … để đạt được trạng thái thân thể no đủ và tinh thần bão mãn
nhất (Nhân khí thịnh vượng nhất).
Đến
đúng giờ các tà tu sẽ cho thân chủ cùng “Thánh nữ” hành phòng. Trong khi đó tu
sĩ sẽ sử dụng ba yếu tố Thiên-Địa_Nhân làm “ngòi nổ” để khởi động trận Tam Tài.
Sau đó lại dùng Tam Tài Trận thúc dục “Dẫn Hồn Linh” thông qua nguyên âm của
thánh nữ bị tiết ra sau khi bị phá thân tiến hành thu một phần hồn phách của
“Thánh nữ” đồng thời dùng phần hồn phách này và khí nguyên âm khởi động nốt “Tế
thiên trận” để thực hiện một loại pháp thuật (Trong các bản thảo cổ tìm được hầu
hết bị hư hại phần cuối nên không rõ được là pháp thuật gì. Trong bản thảo mới
nhất mà tôi tìm được thì là điệp giai pháp thuật “Ngũ Quỷ Vận
Tài”).
Theo những gì thu thập được
thì sau khi thực hiện thuật này những vụ làm ăn thường vô cùng thuận lợi (kết
quả hiện rõ) và đồng thời thân chủ cũng không có nhiều ảnh hưởng về sau. Có điều
các “Thánh nữ” thì thường chết ngay sau đó (Không quá ba tháng sau khi bị thi
thuật).
Nhàn đàm: Mặc dù thuật chiêu
tài này thoạt nhìn thì chỉ có một người bị hại là Thánh nữ, và thân chủ có vẻ
như không bị quả báo trong suốt cuộc đời của mình. Nhưng bản thân tôi vẫn tin
rằng vận số con người tuyệt đối không dễ thay đổi như thế, báo ứng có thể không
đến ngay trong đời này, nhưng đến các đời tiếp theo thì rất khó mà
nói.
Tất nhiên, nếu ai cho rằng chỉ
cần đời này không bị gì thì sau khi chết cũng đâu cần quan tâm hay đời con cháu
có ra sao mình cũng không biết được thì tôi xin miễn bàn. Chỉ xin khuyên những
ai có hy vọng nhờ vào dị thuật, pháp thuật… để thay đổi vận số của mình nên thận
trọng, số mệnh tốt nhất phải được tạo thành từ chính sự lao động của đôi bàn tay
mới là đáng quý.

Kỳ
3: Bạch Hổ Nguyên Âm
Đề tài có chút
nhạy cảm, đề nghị các member dưới 18t suy nghĩ kỹ trước khi đọc tiếp. Mọi hậu
quả dẫn đến do việc không ý thức được giới hạn lứa tuổi tôi sẽ không chịu trách
nhiệm.
Mấy tháng trước có đọc một topic trong diễn
đàn của một bạn trẻ than phiền về việc nghe tin đồn việc bạn gái của cậu ta,
người có tình trạng chỗ kín không có lông mao, là một trong những tướng sát phu
và nhờ mọi người giúp đỡ.
Lúc đó tui cũng bận nên
chỉ lướt qua và để lại một vài lời khuyên giúp bạn trẻ tự tin hơn trong việc
tình cảm của mình, đừng quá câu nệ vào những tin đồn thất thiệt mà có khi dẫn
đến việc nhân duyên bị bỏ lỡ.
Theo góc độ khoa học
mà nói, tình trạng nữ giới chỗ kín từ khi sinh ra cho tới lúc chết đi không có
lông mao là một loại gen di truyền khá hiếm có, nhưng ngoài điều đó ra thì họ
cũng chỉ bình thường như những người phụ nữ khác mà không có gì khác biệt
cả.
Theo góc độ huyền thuật cũng vậy, dù rằng
trong quan niệm cổ xưa đều gọi những người phụ nữ chỗ kín không có lông mao tự
nhiên là Bạch Hổ và đều coi là có tướng sát chồng, nhưng thực tế những người
thực sự hiểu biết huyền thuật đối với điều này đều sẽ chỉ cười nhạt mà
thôi.
Bạch Hổ Nguyên Âm theo những tài liệu cổ xưa
lưu lại đều cho rằng là một trong những “tài liệu” quý hiếm mà giới tu sĩ Trung
Hoa cổ đại (nhất là hạ trung tầng) vô cùng coi trọng. Lý do tạm thời chưa nói,
nhưng việc nó quý hiếm là không thể phủ nhận và đặt ra nghi vấn cho việc có phải
bất cứ người phụ nữ nào có tình trạng kể trên cũng là Bạch Hổ hay
không?!!
Không khó để trả lời nghi vấn này. Bởi vì
cho dù việc người phụ nữ có tình trạng chỗ kín không có lông mao là rất hiếm,
nhưng với tình thế của đất nước lấy đông dân mà nổi tiếng từ ngàn xưa như Trung
Quốc, thì dẫu tỷ lệ xuất hiện là một trên một vạn đầu người, nó cũng không quá
có thể coi là vấn đề. (Nói vui một chút, trong các phim cổ trang, dã sử lịch sử
Trung Quốc đã công chiếu, ai cũng biết mỗi khi Trung Hoa cổ đại có chiến tranh
thì lượng quân sĩ họ thường dùng đều được tính bằng đơn vị vạn. Quy mô trung
bình thì 1, 2 vạn. Quy mô lớn thì vài chục vạn đến trăm vạn cũng bình thường. Mà
cứ coi một bà mẹ cả đời chỉ ăn và đẻ ra được 10 đứa con, thì việc đẻ ra tầm trăm
vạn quân cũng cần phải có tới mười vạn người phụ nữ. Như thế thì ít nhất một đời
người cũng có thể xuất hiện 10 “Bạch Hổ” là ít).
Tuy nhiên, với lượng dân đông đảo như thế Bạch Hổ Nguyên Âm
vẫn được coi là vô cùng, vô cùng hiếm. Điều đó cho thấy không phải bất cứ người
phụ nữ nào có tình trạng tế nhị kể trên đều là Bạch Hổ cả. Vậy như thế nào mới
có thể là Bạch Hổ Nguyên Âm? Và tại sao trong văn hóa Trung Hoa cổ lại cho rằng
những người phụ nữ có tình trạng bề ngoài giống Bạch Hổ lại là tướng sát phu? Và
tại sao nó lại được giới thuật sĩ coi trọng?
Xin
thưa Bạch Hổ đúng là người phụ nữ có tình trạng tế nhị như đã nói từ đầu, nhưng
những người phụ nữ đó phải là người sinh vào giờ âm, ngày âm, tháng âm, năm Nhâm
Dần hoặc Giáp Dần thì mới tạm coi là chuẩn. Nếu muốn thực sự đúng phải là những
người được sinh sống từ nhỏ tại nơi có điều kiện phong thủy dồi dào thuận lợi
(nếu được cho ăn học lục nghệ đến một ngưỡng nhất định thì càng tốt vì như thế
người càng có anh khí), với điều kiện Trung Quốc cổ đại thì đó thường là các
tiểu thư khuê các con nhà quan lại quyền quý (Điều này cũng là một trong những
yếu tố quan trong dẫn đến việc gây ra sai lệch trong tư duy của dân chúng Trung
Hoa tạo thành cái gọi là “tướng sát phu”)
Theo
Thái Thượng Đan Kinh, “người con gái” Bạch Hổ có âm nguyên khí dồi dào, tinh
thuần gấp trăm lần phụ nữ thông thường, đồng thời âm nguyên khí có tính trung
hòa lợi cho việc ôn dưỡng khí tức, bồi dưỡng sinh cơ, không bài xích bất cứ một
loại công pháp nào cả. Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm (trinh tiết của Bạch Hổ) cực
kỳ thích hợp cho việc đột phá đạo quan (hoặc có người gọi là huyền
quan).
Ngoài ra, theo một số tài liệu khác còn
miêu tả. “Bạch Hổ” trời sinh vũ mị, ngọc cốt băng cơ… thích hợp với các chủng
mị công, âm công, tà công mang tính băng hàn, âm mộc, cổ thuật.
Nói chung chính vì âm nguyên khí của Bạch Hổ vô cùng thuận
lợi cho việc tăng trưởng đạo hạnh cho tu sĩ bất kể tu sĩ đó tu luyện loại công
pháp nào (Nói theo cách của Kim Dung thì là tăng trưởng công lực)… Đặc biệt
Bạch Hổ Nguyên Âm lại càng trực tiếp có thể giúp tu sĩ vượt qua đạo quan, huyền
quan (Up level) nên những người con gái Bạch Hổ thường được coi là lô đỉnh hay
đạo lữ tốt nhất cho việc song tu.
Thái Thượng Đan
Kinh cũng cho rằng Bạch Hổ Nguyên là một trong 16 dạng Nguyên Địa kỳ chân tốt
nhất trong việc giúp người tu đạo bước một bước dài trên con đường thành tiên,
trường sinh bất lão.
Quay trở lại với “nhân gian”,
do âm nguyên khí của Bạch Hổ dồi dào và tinh thuần vượt trội, điều này mặc dù có
lợi cho việc tu luyện của tu sĩ, nhưng đối với người phổ thông lại khá “khó gặm,
khó tiêu”.
Nam nhân bình thường sau khi giao hợp
với Bạch Hổ thường không chịu nổi âm nguyên khí của Bạch Hổ xâm nhập cơ thể (đặc
biệt là các dạng công tử môn đăng hộ đối, nhưng thân thể yếu nhược) nên thường
chết ngay trong đêm tân hôn. Người khỏe mạnh có thể tránh được điều này thì cũng
bị âm nguyên khí ăn mòn dần cơ thể nên cũng thường chết sớm.
Điều này trong mắt cổ hủ, thiếu kiến thức của người cổ đại
lập luận thành Bạch Hổ là tướng sát phu. Nhất là khi Bạch Hổ thường là tiểu thư
con quan, nên nhà chồng thường cũng là thế gia, điều đó khiến cho sự nhận định
này càng thêm tăng thêm trọng lượng trong tính “xác thực”. Và tất nhiên, người
ta không nắm rõ thế nào là Bạch Hổ mà chỉ suy đoán nhờ “dấu hiệu đặc trưng” vô
cùng dễ nhận biết của “Bạch Hổ” để suy xét “tướng sát phu” mà thôi.
Nhàn đàm: Chuyện tình cảm là vô cùng thiêng liêng, nếu các
bạn trai trong diễn đàn có diễm phúc gặp phải bạn gái có tình trạng “Bạch Hổ”
cũng đừng nên nhận định ngay là “tướng sát phu” mà thành ra lương duyên lỡ dở,
để sau này hối tiếc.
Mà cho dù bạn gái thực sự là
Bạch Hổ thì cũng có sao, bởi vì Bạch Hổ vốn dĩ là trời sinh vũ mị dù như thế có
phải chết đi nữa ít nhất cũng có thể là Quỷ phong lưu

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *