ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 4

PHẦN 2
.
MỘT CHÚT
KIẾN THỨC VỀ KỲ MÔN ĐỘNG GIÁP.

( Trong phần này dienbatn sử
dụng tư liệu trong cuốn 
Kim Hàm Ngọc
Kính của Lưu Bá Ôn ,
“透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí
. Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật
– Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh
đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
Thấu Địa kỳ môn tác giả VinhL ,





Bài trước ta biết Bính Tý
long có quẻ Liên Sơn là Trạch Thủy Khổn.
Các bạn nào không thích
tính toán bấm độn thì cứ mở sách bốc dịch ra có thể ghi Lục Thân cho quẻ Trạch
Thủy Khôn.
Riêng tiểu sinh thì thích
dùng Lưỡng Nghi Tiên Thiên để tìm Ngủ Thân (tức Lục Thân
). 
Ôn lại Lưỡng Nghi Tiên Thiên
.
Âm Dương của các cung của Thiên
Thiên Bát Quái
[+][-][+]
[-][x][-]
[+][-][-]
Cộng
thì thuận hành theo chiều kim đồng hồ, Trừ thì nghịch
hành.
Số của hai vòng nghi (Lưỡng
nghi) 1-6-8-5, 2-7-3-4
Tượng quẻ
thì:
Các quẻ thuộc số 1,2,3,4 trong
hai nghi có tượng là đơn quái ngoại.
Các quẻ thuộc số 5,6,7 trong hai nghi có tượng là đớn quái
đối nội
Quẻ thuộc số 8 có tượng là
đơn quái nội.
Hào Thế thì theo các số
của hai nghi 1-6-8-5, 2-7-3-4, như sau:
1 – Thế 6 (quẻ Bát Thuần)
2 – Thế 1
3 – Thế
2
4 – Thế 3
5 – Thế 4
6 – Thế
5
7 – Thế 4 (quẻ Du
Hồn)
8 – Thế 3 (quẻ Quy
Hồn)
Hào Thế và hào ứng đi thành 1
cập 1-4, 2-5, 3-6. Thế 1 thì Ứng 3, thế 3 thì ứng 1, vv….
Ta khởi Trạch (Đoài) tiên thiên, thuộc dương (+), đi thuận,
đếm 
1 Đoài, 6 Càn, 8 Chấn, 5 Ly,
nhảy sang cung đối của Ly là Khảm, Khảm thuộc (-), đi
nghịch
2 Khảm, 7 Tốn, 3 Khôn, 4
Cấn.
Trạch Thủy tức là Đoài Khảm,
Đoài là ngoại quái, Khảm là nội quái, ta khởi tại Đoài tới Khảm được số 2 tức là
quẻ số 2 của tượng vậy.
Quẻ 2 tượng
là đớn quái ngọại, tức là Đoài, thế hào 1 (sơ), ứng hào 4
Vậy ta biết quẻ Trạch Thủy Khổn thuộc quẻ số 2 trong Tượng
(Họ) Đoài.
Tượng Đoài tức là hành
Kim, vậy ta là Kim hành
Ôn lại Trùng
Quái Nạp Can Chi .
Tưởng tượng đây là
12 cung địa chi :

[Tỵ:
Đinh Đoài-][Ngọ: Nhâm Càn——–][Mùi: Ất
Khôn———–][—–]
[Thìn: Bính
Cấn][———————————————-][—–]
[Mão: Kỷ
Ly—-][———————————————-][—–]
[Dần: Mậu Khãm-][Sửu: Quý Khôn,Tân Tốn][Tý: Giáp Càn, Canh
Chấn][—–]

Đó là
hào sơ khởi chi của các quẻ thuần, Dương quái Càn Chấn Khãm Chấn đi thuận, âm
quái Khôn Tốn Ly Đoài đi nghịch, đếm 1 bỏ 1. Càn nội lấy Giáp ngoại lấy Nhâm,
Khôn nội lấy Ất ngoại lấy Quý.
Để dễ
ghi nhớ:
Giáp Nhâm phùng Càn Tý
Ngọ phương
Ất Quý Khôn cư Mùi
Sửu vị
Chấn Canh Tý xứ, Tốn
Tân Sửu
Khãm hề Mậu Dần, Ly Kỷ
Mão
Bính Cấn cư Thìn, Đoài
Đinh Tỵ
Vậy ta
biết:
Đoài khởi Tỵ nghịch hành, lấy 1
bỏ 1, tức Tỵ Mão Sửu (3 hào nội), Hợi Dậu Mùi (3 hào ngoại) Đoài nạp can Đinh
vậy 3 hào ngoại là Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi , Khảm khởi Dần thuận hành, lấy
1 bỏ 1, tức Dần Thìn Ngọ (3 hào nội), Thân Tuất Tý (3 hào ngoại) , Khảm nạp can
Mậu, vậy 3 hào nội là Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ
Vậy ta có 
_ _,
Đinh Mùi
___, Đinh
Dậu
___, Đinh
Hợi

_ _, Mậu Ngọ
_ _,
Mậu Thìn
_ _, Mậu
Dần

Trạch Thủy Khổn họ Đoài Kim, tức ta là hành Kim, xét các
hành của chi để mà lập Ngũ Thân, tức : 
Sinh Ta là Phụ Mẫu
Đồng Ta là Huynh Đệ
Ta Sinh là Tử Tôn
Ta Khắc là Thê Tài
Khắc Ta là Quan Quỷ
Đinh Mùi, Mậu Thìn, Mùi và Thìn đều là Thổ, Ta là Kim, Thổ
sinh Kim, vậy hai hào này là hào Phụ Mẫu
Đinh Dậu, Dậu là Kim, Ta là Kim, Kim Đồng Kim, vậy Đinh Dậu
là hào Huynh Đệ
Đinh Hợi, Hợi là
Thủy, Ta là Kim, Kim Sinh Thủy, vậy Đinh Hợi là hào Tử
Tôn
Mậu Ngọ, Ngọ là Hỏa, Ta là Kim,
Hỏa Khắc Kim, vậy Mậu Ngọ là hào Quan Quỷ
Mậu Dần, Dần là Mộ, Ta là Kim, Kim Khắc Mộc, vậy Mậu Dần là
hào Thê Tài
Như vậy ta được quẻ Trạch
Thủy Khổn như sau:

_ _,
Đinh Mùi, Phụ Mẫu
___, Đinh Dậu,
Huynh Đệ
___, Đinh Hợi, Tử Tôn
(Ứng)

_ _,
Mậu Ngọ, Quan Quỷ
___, Mậu Thìn, Phụ
Mẫu
_ _, Mậu Dần, Thê Tài
(Thế)

Này ta
đã có Ngũ Thân Tử Phụ Tài Quan Huynh, ta xem lại Can Chi mỗi hào an tại cung nào
trong 9 cung.
Nếu Can Chi rơi vào
Trung cung thì Dương Độn ký Khôn, Âm Độn ký Cấn.
Bính Tý Long thuộc Âm Độn 1 cục, vậy nếu Can Chi của Ngủ
Thân nào rơi vào Trung Cung thì ký tại cung Cấn vậy.
Ta có Can Chi hào của Trạch Thủy Khổn an vào các cung như
sau:
Đinh Mùi, Phụ Mẫu, cung
Chấn
Đinh Dậu,Huynh Đệ, cung
Tốn
Đinh Hợi, Tử Tôn, cung Cấn (Đinh
Hợi rơi vào Trung Cung nên ký cung Cấn)
Mậu Ngọ, Quan Quỷ, cung Khảm
Mậu Thìn, Phụ Mẫu, cung Càn
Mậu Dần, Thê Tài, cung Cấn (Mậu Dần rơi vào Trung Cung nên
ký cung Cấn)

Như vậy
Bính Tý Long có Ngũ Thân như sau:
[Huynh–][—-][—]
[Phụ—-][—-][—]
[Tài, Tử][Quan][Phụ]

Ghép
vào Tam Kỳ 8 Môn (bài trước) vào thì ta có:
[Huynh,Đinh,
Sinh][———–][Ất——–]
[Phụ,Bính,
Hưu—][———–][———-]
[Tài, Tử,
Khai—][Quan——-][Phụ——-]

Như vậy
ta còn lại 4 thức: 4 Kiết, Lộc, Mã, Quý Nhân là xong quẻ Thấu Địa Kỳ
Môn!!!
GIẢI THÍCH TẦNG 17 CỦA LA KINH TAM HỢP ĐỊNH TỨ CÁT, TAM KỲ, BÁT MÔN, CỬU TINH; TỬ, PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ, LỘC MÃ, QUÝ NHÂN, ĐÁO PHƯƠNG, ĐỊNH CỤC

Co dãn 60 Long thấu địa, gọi
là Thiên Kỷ, hay Thấu địa Quang bảo đó là mộ thừa khí; đưa khí tốt vào huyệt,
Tiên Thánh nói: Núi sông có linh thiên mà không có chủ; hài cốt có chủ nhưng
không có linh thiêng. Người chết còn linh gì được ? Chẳng qua là cái khí thiêng
của núi sông tụ lại, là chân long kết huyệt, chung đúc khí tinh anh lại 1 chỗ,
làm cho hài cốt ấm áp, trong sạch, thì cái tinh khí ấy truyền vào con cháu, được
thấm nhuần mà phát sanh ra người tinh anh v.v… Như: 12 vị Thiên can lai Long,
trong vòng đó có 1 huyệt gặp được vị Châu bảo, còn xê dịch sang hai bên tả, hữu
là vị Cô hư, Sát diệu, Không vong. Cách một huyệt Hỏa khanh ở bên tả và hữu lại
có 2 huyệt có thể kết được. Như vậy là có 3 huyệt phát phúc. Như:
trong 12 Long địa chi nhập thủ, thì mỗi Long có 2 huyệt, là
Châu bảo. Trong 12 chi, mỗi chi có 5 chữ Tý, cộng lại thành 60 hoa Giáp hợp với
12 Thiên can trước là 72 Long xuyên sơn nhập thủ chỗ tọa huyệt.
Khi đặt La kinh thì phải đặt ở chỗ kết huyệt, thừa đúng chỗ
lý khí của loan đầu, mà chỉ dùng xem 60 Long thấu địa thôi, Xuyên sơn long không
cần phải dùng đến ở đó. Lấy thấu khí vào quan, ở sau huyệt, khoảng 8 thước
(thước Đông phương). Những Long thuộc về Địa chi, ở giữa chỗ phùng (2 mép khép
lại) là Hỏa khanh, tối kỵ, không nên đặt quan tài vào đó, mà phải thấu vào long
huyệt Châu bảo, ở 2 bên tả, hữu Hỏa khanh. Học giả khi đăng sơn xem đất, trước
phải chiêm nghiệm những ngôi đất cũ, từ xưa nay, hãy còn danh tiếng tích, thì
mới biết phép thừa khí, phân biệt được xấu, tốt đã, sau mới đoạt được Thần công,
thắng tạo hóa. Sau đây, trình bày về 24 ngôi Châu bảo thấu địa long và liệt đồ
về Kỳ môn, tử, phụ, tài, quan, quý nhân, lộc mã, ngũ thân, sa,
thủy.

GIẢI THÍCH VỀ TỬ,
PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ GỌI LÀ NGŨ THÂN

Thấu địa kỳ
môn lục Giáp, chia làm 2 thứ độn là âm và dương
1-
Dương sinh ở Giáp Tý, là dương độn thì thuận khởi lục nghi nghịch bá tam
kỳ
2- Âm sinh ở Giáp Ngọ, là âm độn thì nghịch
khởi lục nghi thuận bá tam kỳ.
Sự cần thiết là thu
được sơn của tứ cát, phác được thủy của Tam kỳ, tọa vào các phương lộc, mã, quý
nhân, phải kỵ cho ngũ hành quan sát tránh chỗ âm, dương, sai thác, bỏ những tinh
thần án phục, thì lấy được những độ thanh kỳ của bát can. Lấy đó mà lượng sa,
tính thủy thì không sai. Phép định huyệt thì lấy hỗn thiên Giáp Tý làm chủ trong
60 Long, 12 Chi, mỗi Chi chiếm 5 ngôi. Chia các tinh độ thuộc ngũ hành của 6
Giáp Tý ra, thừa khí ở đó. 60 Thấu địa long, tọa huyệt làm nội quái, do hỗn
thiên Giáp Tý để xét sơn thủy tốt, xấu làm cần thiết, lấy quý nhân, lộc mã, hoặc
Tam kỳ là Ất, Bính, Đinh, tứ cát là kim, thủy, nhật, nguyệt. Ngũ thân là sa,
thủy, tử, phụ, tài, quan, huynh đệ để tọa huyệt, hợp được sơn của 8 phương. Nếu
được kim, thủy, nhật, nguyệt chiếu hướng, hoặc được Tam kỳ tú bạt là sơn hữu
lực, hoặc các phương tử, phụ, tài, quan, huynh đệ, có cao phong viên tú hữu lực;
hoặc quý nhân, lộc mã cũng phù hợp hóa là đất thượng hạng. Quyết định phát xuất
công hầu, khanh tướng, sinh người trung trinh, nhân hậu, anh tài. Còn nếu hợp
được Tam kỳ, Tứ cát, tất sinh ra người kinh khôi, hào kiệt, liệt sĩ, anh hung.
Pháp này đời nay hiếm người biết đến. Tiên Thánh tạo ra các quẻ Kỳ môn là để sử
dụng các tinh độ biết cách tự nhiên mà xuất. Các học giả hậu thế phần nhiều là
chưa biết nay lục ra thêm 4 tầng để khỏi bị thất truyền, dùng hay không tùy
ý.
Khí Bính Tý ở chính long Nhâm, là tiết đại
tuyết, hạ cục, khởi đầu từ Giáp Tý, Mậu Thân là phù đầu, là nghịch độn tại cửu
cung, là quẻ Trạch thủy khổn , thuộc kim, sơ hào là khuê mộc lang chủ trì (trì
thế)
Đinh Sửu khí ở chính Quý long, Tiết tiểu hàn, Hạ cục
được quẻ Phong thủy hoán, ngũ
cung khởi Giáp
Tý, Giáp Tuất là phù đầu. Kiền cung thuận độn thuộc hỏa, ngũ hào. Mão nhật kê
trì thế.

(
謂平分六十龍透地,地名曰天紀又名曰透地奇門從地脈透引墓中乘生氣趨吉灌穴。如先聖言山川有靈,而無主,屍骸而有主,無靈,乃提有主,而無靈之骨骸,埋於山川有靈而無主之處。盡吸山川之靈,蔭益子孫後代,為此愛用者。不惜榮若奔走。天邊海角,覓尋天地媾精一席之地,運氣行轉引入穴中承受,暖氣給枯骸,福蔭子孫。夫透地奇門此也。亦起予遁甲如來矣。如推算方法,為陰陽二遁,陽遁順起六儀逆佈三奇,陰遁逆起六儀順佈三奇,所用一切仍收四吉之山,撥三奇之水,收生祿馬貴人之避忌五行零神關煞之鄉。促正神上山,零神下水。以此量砂步水:避其顚倒陰陽,足選清六神取貴人祿馬或三奇乙丙丁,四吉,日月金水,五親砂水峯巒父母財官兄弟,以坐穴合得八方之山,日月金水,或得之照向,或三奇峯巒秀拔有力,或是子孫公母財官兄弟鄉峯高圓秀麗,有力、或貴人祿馬拱扶合得化清為上地。定出公侯卿相忠貞仁厚之才。依此如今人皆不知。先聖造此奇門卦例宿度測出呼以自然而用之。今民孽者仍不知陰陽卦之零正兩神配用尚無益于精華所選矣。今余于前人未錄出部份供給愛用者免誤用失傳以世人矣。
中華民國七十五年四月三日 台灣易學館館主 黃號飛龍朝全、中正大學教授黃介良 仝補述
vị bình phân lục thập long thấu địa , địa danh viết thiên kỉ
hựu danh viết thấu địa kì môn tòng địa mạch thấu dẫn mộ trung thừa sanh khí xu
cát quán huyệt 。 như tiên thánh ngôn san xuyên hữu linh , nhi vô chủ , thi hài
nhi hữu chủ , vô linh , nãi đề hữu chủ , nhi vô linh chi cốt hài , mai vu san
xuyên hữu linh nhi vô chủ chi xử 。 tận hấp san xuyên chi linh , ấm ích tử tôn
hậu đại , vi thử ái dụng giả 。 bất tích vinh nhược bôn tẩu 。 thiên biên hải giác
, mịch tầm thiên địa cấu tinh nhất tịch chi địa , vận khí hành chuyển dẫn nhập
huyệt trung thừa thụ , noãn khí cấp khô hài , phúc ấm tử tôn 。 phu thấu địa kì
môn thử dã 。 diệc khởi dư độn giáp như lai hĩ 。 như thôi toán phương pháp , vi
âm dương nhị độn , dương độn thuận khởi lục nghi nghịch bố tam kì , âm độn
nghịch khởi lục nghi thuận bố tam kì , sở dụng nhất thiết nhưng thu tứ cát chi
san , bát tam kì chi thủy , thu sanh lộc mã quý nhân chi tị kị ngũ hành linh
thần quan sát chi hương 。 xúc chánh thần thượng san , linh thần hạ thủy 。 dĩ thử
lượng sa bộ thủy : tị kì điên đảo âm dương , túc tuyển thanh lục thần thủ quý
nhân lộc mã hoặc tam kì ất bính đinh , tứ cát , nhật nguyệt kim thủy , ngũ thân
sa thủy phong loan phụ mẫu tài quan huynh đệ , dĩ tọa huyệt hợp đắc bát phương
chi san , nhật nguyệt kim thủy , hoặc đắc chi chiếu hướng , hoặc tam kì phong
loan tú bạt hữu lực , hoặc thị tử tôn công mẫu tài quan huynh đệ hương phong cao
viên tú lệ , hữu lực 、 hoặc quý nhân lộc mã củng phù hợp đắc hóa thanh vi thượng
địa 。 định xuất công hầu khanh tương trung trinh nhân hậu chi tài 。 y thử như
kim nhân giai bất tri 。 tiên thánh tạo thử kì môn quái lệ túc độ trắc xuất hô dĩ
tự nhiên nhi dụng chi 。 kim dân nghiệt giả nhưng bất tri âm dương quái chi linh
chánh lưỡng thần phối dụng thượng vô ích vu tinh hoa sở tuyển hĩ 。 kim dư vu
tiền nhân vị lục xuất bộ phân cung cấp ái dụng giả miễn ngộ dụng thất truyện dĩ
thế nhân hĩ 。trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật   thai
loan dịch học quán quán chủ hoàng hào phi long triêu toàn 、 trung chánh đại học
giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *