Untitled Post

1.

2. Câu chuyện về căn nhà bị yểm
Câu chuyện một căn nhà bị yểm bùa.


Tháng Giêng năm Kỷ Sửu vừa qua tôi có dịp ra Bắc lễ, lúc nhàn rỗi trà dư tửu hậu tôi mới ngồi kể về các phép yểm bùa của thợ mộc theo phái Lỗ Ban. Đang nói đến cách dùng chữ trong yểm bùa thì có một chị nói rằng: Cách đây gần 10 năm chồng chị có mua 1 căn nhà cổ về dựng trên nền đất của gia đình để giữ đất, không hiểu sao từ khi làm xong căn nhà đó thì vợ chồng làm ăn sa sút, khuynh gia bại sản đến mức khánh kiết và hiện nay đang lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn. 
Chủ trước của ngôi nhà đó cũng là người gặp đại hạn, vợ chết, lấy vợ thứ thì được ít ngày thì cô ta cũng bỏ nhà ra đi. Con cái bệnh tật. căn nhà cổ bán rẻ như cho. Tính vào thời điểm lúc đó chỉ bán được hơn 3 triệu đồng.
Người chủ sau này vốn là anh bộ đội, thấy rẻ, thấy đẹp thì mua chứ không có nhiều kiến thức về nhà cổ.
Tại sao nhà lại bị yểm? Câu trả lời thì hiện nay cũng giống như truyền thuyết và trở thành nhiều dị bản khác nhau. Ở đây tôi chỉ giới thiệu hai câu trả lời là hai cách hiểu thông dụng nhất.
Chung nhất vẫn là do cánh thợ mộc làm ra. Từ xưa đã có luật mật truyền trong các Làng Nghề mộc là khi đi dựng 9 căn nhà thì đến căn thứ 10 thì phải cúng cho Tổ nghề. Cho dù nhà đó là nhà của chính bố đẻ mình. Những cánh thợ mộc có đức thì người ta làm một căn nhà mái rạ ven sông, rồi chọn ngày đốt. Làm được điều này thì chẳng có ân oán gì vì chẳng gây họa cho ai, nhưng lại tốn kém. Còn cánh thợ mộc khác phần do kinh tế eo hẹp, phần do lời thề không phản bội tổ nghệ nên họ cứ thế mà làm. Biết rằng làm điều ấy là không tốt nhưng nếu không yểm thì rất là nguy cơ. Cũng có khi chủ nhà đối đãi chẳng ra gì với họ cho nên họ mới yểm cho để báo thù.
Truyền thuyết thứ 2 là, chủ nhà vốn là người độc ác hoặc có nợ máu với dân, thường làm những việc trái với luân thường đạo lý. Tổ sư nghề mộc hiển linh và báo mộng cho anh thợ cả để phải yểm ngôi nhà ấy.
Cách yểm nhà thì cũng có nhiều cách. Thông thường có ba cách chính.
Thứ nhất, thường dùng nhất là dùng mảnh chàng hoặc mảnh đục đóng găm vào 2 đầu long cốt (đòn nóc), trên 2 cái xà ngang thì viết đôi dòng chữ:

Dòng thứ nhất viết dưới xà ngang bên trái:
CÀN NGUYÊN HANH LỢI TRINH

Nguyên những chữ này nằm trong Kinh Dịch thuộc Quẻ Bát Thuần Càn là tượng trưng cho Trời thiêng liêng , đức lớn nên người Xưa muốn mượn những chữ ấy mà trừ bỏ những điều không tốt . Ngoài ra tại một số vùng quê khác ở đồng bằng bắc bộ khi xây dựng các căn nhà theo lối cổ cổ người ta vẫn đưa bốn chữ này lên . Theo khảo cứu thì năm câu này cũng có trong câu Thần Chú yên Thổ Địa Thần của Đạo Giáo.
Người thợ cả khéo léo chạm ẩn một chữ “Khứ” nghĩa là đi. Đồng nghĩa với việc hung họa sẽ ập xuống nhà này. Đây là một cách yểm thừa tự. Hoặc trong 5 chữ đó người thợ chạm cố ý bớt nét đi – đây là cách yểm chiết tự. Hoặc dùng máu chó đẻ, chọn giờ Thìn ngày Thìn thì đồ lên các nét vẽ.
Dòng thứ hai viết dưới xà ngang bên phải:
KHƯƠNG THÁI CÔNG TẠI THỬ

Truyền thuyết kể lại, Khương Thái Công (không phải là Khương Tử Nha) có nghề đồ tể, Ông chuyên đi thăm heo, ông ta tay cầm roi chỉ vào con heo nhà nào, mà nhà đó không bán cho lão ta thì heo đó sẽ chết. Vì thế khi khắc dòng chữ này thợ chạm thế nào cũng phải đi ăn tiết canh rồi lén lấy chút huyết heo về đồ lên chữ. Nhà nào phải những dòng chữ này thì tuyệt tự, hậu duệ tan nát. Con cái đẻ ra thì ngu đần, thất học hoặc bỏ học, sự nghiệp tan rã. Chủ nhà làm ăn ngày một đi xuống.

Đây là hình ảnh xà ngang của ngôi nhà bị yểm

Vết nứt trên xà đã được trám lại nhưng có hình cây kiếm


… còn tiếp….
Last edited by Pháp sư Huyền Trí; 12-03-2009 at 11:22 PM.
————————————————————————————————————

Các thành viên đăng kí mới vui lòng thông báo qua hòm thư : quangtichphapsu@gmail.com để được xác nhận.
 Trả lời với trích dẫn
3. 13-03-2009, 08:18 AM#2
Pháp sư Huyền Trí 
 Vạn Pháp Thần Thông
Ngày tham gia
Mar 2008
Bài viết
1,930
Còn một phương pháp yểm khác, rất ít được sử dụng vì nếu dùng phương pháp yểm này thì người thợ cả phải thật cao tay. Ngoài nghề làm mộc cho nhà thì anh ta phải giỏi cả nghề làm quan tài. Trong nhà anh ta có 1 cỗ quan tài lớn, khi muốn yểm ngôi nhà kia thì phải mặc bộ đồ khâm liệm người chết, chui vào quan tài mà luyện phép, khi luyện phép xong thì khi đến nhà cần yểm thì chỉ cần họa bùa yểm vào không trung, rồi vỗ mạnh một cái, hoàn toàn không lưu lại một dấu vết nào. Yểm bằng cách này thì cũng rất khó tìm ra, chỉ có những thầy cao tay dùng ngải ngậm vào miệng, đốt Mẫu Lệ (vỏ sò) và Hổ Tu (râu hổ) thì may lắm hình bùa vẽ mới hiện lên cột.

Thời gian sau này, chế độ phong kiến suy thoái, trình độ thợ cả cũng không còn mấy người giỏi. Chính vì thế khi dựng nhà có bao nhiêu ngón nghề là anh ta mang ra sử dụng hết. Chính vì thế gia chủ có khi lao đao đến mấy đời.

Cách gỡ yểm thì có nhiều cách. Thực ra gọi là gỡ thì không được chuẩn, mà là dùng phương pháp phong yểm (Phong nghĩa là gói lại) – tức là yểm ngược lại căn nhà trên, không cho bùa cũ phát tác.

Đàn tràng tế luyện



Mâm bùa đã chuẩn bị

Thông thường thì người mới mua nhà cũ về thì bao giờ cũng làm hẹp hơn căn nhà được mua, việc đầu tiên là cưa ngắn 2 đầu long cốt lại, sào mực cũng được chặt đi theo kích thước mới. Các chân đá cũng phải thay đổi cho nhau.
Còn như những nhà không biết, thì biện pháp hóa giải cực kỳ khó khăn. Phải thực sự hiểu được nguyên lý của cách yểm trước đó và tìm ra biện pháp khắc phục phù hợp nhất.
Như căn nhà này thì tôi dùng 1 cái cầu bằng vải đỏ giăng từ mép hiên ngoài xuống sân. Dưới cầu dán 108 đạo bùa Lục Tự, trên cầu rải 108 con bài tổ tôm. Đoạn lập đồ cúng ngay dưới gầm cầu vải.



Cầu chiêu binh

Mâm phát lương
Trong nhà thì khi vào thì tôi cho đóng kín cửa lại đốt trầm cho đặc khói, một lúc thì mở hết các cửa cho thoát hết âm khí.
Tôi lập một đàn cúng trấn nhà ngay giữa nhà. Sau khi cúng thì bắt đầu sang thỉnh thánh luyện bùa.

Đàn cúng thần linh
Một ván in Lục Tự được đóng lên trên phía trước bàn thờ, bốn cây cột được dán ngược 4 đạo bùa trấn.

Bùa Án Ma Ni Bát Minh Hồng bằng gỗ đóng giữa nhà

Riêng đối với 2 cái câu đàu bị yểm thì dùng ấn Đức Thánh Trần dán đè lên, mặt sau ấn vẽ bùa ngược vào đó.
Bùa Phong yểm dán trên câu đầu


Bùa Áp Đảo dán ngược vào cột

Đoạn tôi thắt ngang lưng 1 dải lụa đó, trán chít khăn đầu rìu, cầm kiếm Thất Tinh trèo lên nóc nhà, giăng 1 tấm lưới đánh cá, miệng đọc chú tay cầm kiếm bắt quyết trừ tà. Xong thì hô hấp Thiên Cang yểm trợ sái đậu thành binh khu trừ tà khí xuống cầu vải đỏ đã được giăng sẵn trước đó. Tức tốc nhảy xuống đất và dùng kiếm chém rách cái cầu vải, đặng không cho hung thần có đường lên nữa.



Cầu Thỉnh Tổ áp sát hung thần
 [/CENTER]





Tôi lấy các vị: Hùng Hoàng, thần sa, chu sa, quỷ kiến sầu, đinh hương,.. Chia làm 6 phần. Căn dặn chủ nhà chôn 4 góc nhà, giữa nhà và giữa cổng. Tất cả có kèm theo 1 đạo bùa.
Last edited by Pháp sư Huyền Trí; 26-03-2009 at 07:43 AM.
————————————————————————————————————

Các thành viên đăng kí mới vui lòng thông báo qua hòm thư : quangtichphapsu@gmail.com để được xác nhận.
 Trả lời với trích dẫn
4. 13-03-2009, 08:28 AM#3
Pháp sư Huyền Trí 
 Vạn Pháp Thần Thông
Ngày tham gia
Mar 2008
Bài viết
1,930
Xin trích một bài viết về cách dựng nhà cỗ.


……. (sưu tầm) ….

Khi phần mộc và các chất liệu đã sẵn sàng để dựng nhà, gia chủ phải chọn một ngày tốt để làm lễ thượng lương, tức là lễ dựng đòn nóc, tiếng địa phương gọi là đòn đôông. Lễ vật chính trên bàn thờ là cái đòn đôông. Giữa đòn treo một lá cờ bùa Bát quái trấn trạch, trên có ghi ngày làm lễ và tuổi của gia chủ. Phần trên của bùa có gắn hai nhánh thiên tuế để cầu cho sự trường tồn của căn nhà. Mép dưới lá cờ có gắn 2, 4, hoặc 6 đồng tiền cổ cầu việc tài lợi hanh thông cho chủ nha sau này. Ngoài hương hoa trà quả, trên bàn thờ còn có một đĩa gạo, muối, hột nổ (các viên bộ nhuộm ngủ sắc rồi rang phồng lên, chỉ để cúng tế), và bạc tiền mã của gia chủ. Người thợ cả và các thợ khác mỗi người cũng đặt một đĩa gạo tiền trên bàn thờ để xin lộc của lá bùa. Riêng thợ cả phải để một cái khăn đầu rìu màu đỏ trên đĩa gạo của mình, và anh ta sẽ chít khăn này khi dựng đòn. 
Khi hành lễ, gia chủ hoặc người chủ lễ phải khấn bài khấn thượng lương, với năm câu phụng thỉnh các vị tiên, tổ sư của nghề xây nhà. Một trong các vị ấy là Lô Ban, người Xuân Thu (770-475 trước CN), Trung Quốc. Ông chế ra các dụng cụ của thợ mộc như đục, cưa, thước, và được đời sau tôn làm tổ sư ngành xây dựng. Vị thứ hai không kém phần quan trọng là bà Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các mọi vật liệu trong thiên nhiên. Phải khấn để xin bà cho phép lấy cây ở rừng về làm nhà. Mỗi câu khấn thật ra có mục đích để trấn một gian hoặc chái của căn nhà. Nếu đây là nhà một gian hai chái thì bài khấn chỉ cần có ba câu đầu. Sau khi lễ xong, gia chủ phải là người đầu tiên đỡ tay vào đòn. Sau đó người thợ cả, rồi đến các người thợ sẽ đỡ giúp tay đòn. Trong trường hợp gặp ngày tốt phải làm lễ ngay mà chưa kịp có đủ ngói lợp, người thợ cả sẽ gói hai viên ngói và treo bên cạnh cờ bùa bát quái. Lá bùa này được giữ trên đòn nóc vĩnh viễn, hay ít nhất cũng đến ngày lễ tân gia. 
Hướng mặt tiền của căn nhà không nhất thiết phải là hướng nam, mà nhiều khi được ấn định bằng việc xem tuổi của gia chủ. Nhưng xem hướng nhà không quan trọng bằng việc đo lường ấn định kích thước của nhà, và nhất là cửa, ngõ. Người Á Đông xưa dùng thước Lỗ Ban để đo đạc trong quá trình dựng nhà. Hiện có nhiều loại thước Lỗ Ban khác nhau, thí dụ như thước của Trung Quốc, Nhật, Lào và Việt Nam. Theo các nghệ nhân lớn tuổi trong nghề dựng nhà xưa ở Huế, vua Gia long đã ra lệnh sửa đổi các thước Lỗ Ban cổ, bằng cách thêm 4 phân (khoảng 2cm) vào mỗi loại thước, để cung điện được triều Nguyễn xây sau này sẽ khác với các triều đại trước, cũng như với ngoại bang. 
Có hai loại thước Lỗ Ban được dùng trong việc xây nhà ở Huế ngày xưa. Loại đầu tiên là Bát mộc xích, dài 42,7cm, để đo cột, kèo và mọi chiều dài rộng trong nhà. Loại thứ hai quan trọng hơn, là Bát mộc xích, dài 28,4cm, để đo chiều rộng cửa, ngõ. Mỗi thước Lỗ Ban được chia làm 8 cung, trong đó có 4 cung cát (tốt lành) và 4 cung hung (xấu). Mỗi cung lại chia làm 4 phần. Thí dụ như cung Phước Đức có 4 phần: Âm Đức, Thiên Sanh, Lục Hạp, Nghênh Phước. 
Đo cửa là điều quan trọng nhất trong việc làm nhà. Kích thước của đất và nhà có thể vì khả năng, tài lực của gia chủ mà thay đổi. Nhưng dù đất có nhỏ đến đâu cũng phải có cửa, và cửa được coi là linh hồn, sinh lực của căn nhà. Người xưa tin rằng chỉ xê xịch vài phân chiều rộng của cái cửa cũng có thể đổi hẳn vận mệnh của chủ nhà. 
Một nhà 3 gian có 9 cửa ở mặt tiền, và các cửa phải được đo kỹ như nhau. Chiều rộng tương đối của mỗi cửa do gia chủ chọn được đo bắt đầu từ cạnh bên trái. Khoảng còn lại cuối cùng, không đủ một thước, sẽ được ứng vào cung, phần mà gia chủ ấn định. Thí dụ nếu chủ nhà đứng tuổi và mong trường thọ thì chiều rộng cửa sẽ được ứng vào phần Thiên Sanh của cung Phước Đức. Nếu gia chủ muốn con cái sau này thi đậu, thành đạt, thì sẽ đo cửa vào phần Đăng Khoa của cung Tài Lộc. Không đo kỹ mà để chiều rộng rơi vào các cung hung, thí dụ như cung Lục Hại, thì sau này sẽ có nguy hiểm. Cả ngõ vào nhà cũng phải được đo tương tự. Để tăng thêm phần hiệu lực của thước Lỗ Ban, người thợ cả sẽ phải khấn ba lần một bài chú Khai môn bằng chữ nho khi đo cửa, ngõ. Câu chú vẫn dùng ngày nay ở Huế do Thượng thư bộ Lễ Phan Thanh Giản sao lại và ban ra ngày 20/5 năm Tự Đức thứ 9 (1856). Hiện nay người Á châu ở khắp nơi, kể cả nước Âu Mỹ, vẫn dùng thước Lỗ Ban để ấn định chiều rộng của cửa chính khi xây nhà. 
Tục truyền rằng trong khi xây nhà, gia chủ phải dùng lễ để đối đãi với các thợ, nhất là thợ cả. Những người thợ nhà nghề nhưng ác tính thủa xưa có thể dùng bùa Lỗ Ban để hại gia chủ nếu họ bị ngược đãi. Bùa Lỗ Ban có ban hạng thượng, trung, hạ. Mỗi hạng lại có 16 cặp để yểm giải. Người thợ xem cờ bùa thượng lương để biết rõ can, mệnh, tuổi gia chủ tuỳ theo căn cơ cao thấp của chủ nhà mà chọn bùa. Thường thì người ta viết một lá bùa nhỏ rồi dấu vào khe đòn tay, kèo, hay chân cột khi thuận tiện. Cũng có khi người ta yểm thêm vào đấy một con ngựa và một cái kiếm khắn nhỏ. Nhưng người thợ cao tay ấy chỉ cần dung tay trái vẽ bùa lên không rồi vỗ tay vào cột chính là đủ. 
Phức tạp như thế nhưng vẫn chưa xong, người xưa còn phải rất cẩn thận khi thiết kế đất vườn chung quanh nhà. Mỗi thứ cây đều có hàm một ý nghĩa nào đó. Thí dụ như tùng, bách là cây Tiên Lão trường sinh, chỉ trồng ở các lăng tẩm. Ngô đồng là cây quân tử, nên trồng trước nhà. Đào ngăn quỷ, nhưng quỳnh chiêu gọi ma. Mít lấy từ chữ Phạn paramita, (phiên âm Hán Việt là ba – la – mật – đa), có nghĩa là giác ngộ, giải thoát, cho nên hay trồng bên chùa. Cây vã đem lại sự không may nếu trồng gần nhà, vì “mỗi cây vả ngả một người’. Rồi lại còn các quy cách như “đông đào tây liễu”, “cau trước chuối sau”… rất phức tạp. 
Trên đường vào trước nhà phải xây một bức trấn phong để ngăn chặn tà ma xâm nhập. Sau đó lại có hòn giả sơn để phụ cho trấn phong. Bên cạnh mục đích mỹ thuật trang trí, giả sơn thường được làm với những dạng có hình thức Lão giáo, thí dụ như Tam sơn, Bồng Lai tam đảo, Ngũ nhạc, Lý ngư vượt Vũ môn, để nếu có ác sự nào vượt được trấn phong thì sẽ bị lạc lối và ở lại tiêu dao trong cácnơi núi non tiên cảnh này. Người xưa rất sợ trường hợp thay vì một hòn giả sơn, vì không am hiểu họ lại có một “gò mã ma ở” do thợ có ác ý đắp trước nhà.
Các tục lệ, tin tưởng, nghi lễ trong việc xây nhà rường trước đây là những yếu tố hình thành của nền văn hoá Việt Nam nói chung và Huế nói riêng. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tâm nguyện của người xưa được đặt vào mới tạo nên một ngôi nhà rường. Tất cả có lẽ đều có mục đích để cho người ta trân trọng, gắn bó với căn nhà hơn. 
Theo Trịnh Bách (Huế xưa và nay
————————————————————————————————————

Các thành viên đăng kí mới vui lòng thông báo qua hòm thư : quangtichphapsu@gmail.com để được xác nhận.
 Trả lời với trích dẫn
5. 13-03-2009, 11:13 AM#4
duonghoainam61 
 Thái cực
Ngày tham gia
Mar 2008
Bài viết
7
Ngày xưa,khi trong nhà có cha mẹ chết,họ cho một mẩu mực tầu vào miệng.Đến lúc bốc mộ thì lấy ra.Khi có sự thù oán gì họ mài mực vẽ chữ quỷ ( phải viết chữ nho mới công hiệu)…vào cửa vào xà nhà,vào bất cứ vị trí nào thuận lợi nhưng lại kín của nhà đối phương…thì đối phương cứ đêm đến lại có ma quỷ quấy nhiễu,nếu viết chữ quỷ bệnh thì người nhà đối phương cứ ốm đau mà khó hóa giải,nếu chính người làm đến hóa giải mới xong.đơn giản là hòa nước có pha Chu sa,thần sa,hùng hoàng…rồi lamg phép gì gì đó rửa sạch là hết.Phép này bây giờ vẫn có những thầy ở các vùng LÚA NƯỚC làm ,nhưng rất hiếm,và họ phải trả giá…Tôi và sư phụ đã phá vài ba vụ .
Last edited by duonghoainam61; 13-03-2009 at 03:52 PM.
 Trả lời với trích dẫn
6. 13-03-2009, 11:22 AM#5
duonghoainam61 
 Thái cực
Ngày tham gia
Mar 2008
Bài viết
7
Tất nhiên các việc làm trên chỉ thuận lợi nhất cho các anh thợ mộc xuống tay yểm đảo.
Miền nam có pahí có những phép:Thư vào nhánh cây,họa bằng chân,thư phù bỏ vào miệng cá lóc…Làm cho đối phương tan nát,điên khùng,ốm đau…Miền bắc cũng có những phép làm cho lội điên khùng lội nước,nói lảm nhảm cả ngày,cởi quần áo la hét chạy…Phải nói phép này của phái bắc tông,các thầy pháp đã ra tay thì tỷ lệ đạt rất cao,tài liệu tôi không giám viết lên các diễn đàn ,sợ họa phúc khôn lường.Thư thả tôi Pót lá bùa lên cho các bạn tham khảo nhé,mỗi phép có một lá bùa,tôi chỉ đăng một lá của một phép thôi để mang tính tham khảo.
Last edited by duonghoainam61; 13-03-2009 at 04:01 PM.
 Trả lời với trích dẫn
7. 14-03-2009, 09:05 AM#6
duonghoainam61 
 Thái cực
Ngày tham gia
Mar 2008
Bài viết
7
Đây là trang đầu của cuốn sách và lá phù làm cho cười nói lảm nhảm cả ngày.Trong cuốn sách còn có dạy cả phép hóa giải nữa.





Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *