HUYỆT ĐẠO QUỐC GIA AM TIÊN TRÊN ĐỈNH NGÀN NƯA XỨ THANH

Kỳ bí huyệt đạo Quốc gia Am Tiên trên đỉnh ngàn Nưa xứ Thanh

     Văn hóa và tín ngưỡng Việt Nam chịu ảnh hưởng đạo Lão rất mạnh mẽ, không ít địa danh trên toàn quốc đã gắn với ” tiên” và mang màu sắc huyền bí như chùa Tiên, đền Tiên, giếng Tiên, động Tiên, am Tiên, cồn Tiên, bãi Tiên. Có ba nơi là địa danh nổi tiếng: 
1. Động Am Tiên ở Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
2. Núi Am Tiên là hệ thống gồm 99 ngọn của dãy núi Hồng Lĩnh tỉnh Hà Tĩnh. 
3. Huyệt đạo Am Tiên tỉnh Thanh Hóa 
         Trong đó, huyệt đạo Am Tiên là quan trọng nhất trong ba huyệt đạo quốc gia ( huyệt đạo thứ hai là ở Đá Chông trên đỉnh Ba Vì; huyệt đạo thứ ba ở núi Bà Đen tỉnh Tây Ninh).
Huyệt đạo Am Tiên nằm trên đỉnh núi Nưa ( còn có tên là núi Na), ở độ cao 585m so với mặt biển, thuộc địa phận xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa. Địa danh đã gắn liền với cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248 chống giặc Ngô xâm lược. Theo quốc lộ 47 nhằm hướng Tây đi từ thành phố Thanh Hóa khoảng 30 km, bạn đã có mặt ở chân núi Nưa, hoặc đi xe Bus số 17 xuống điểm đỗ ngã ba xã Tân Ninh… nhưng vẫn còn đường đi tắt khác ngắn hơn, chỉ khoảng 15 km. Từ thành phố Thanh Hóa đến ngã ba cầu Trầu khoảng 200m, rẽ trái vào xã Đông Yên và đi tiếp trên con đường liên xã. Hai bên đường là cánh đồng mạ xuân xanh non, ngút tầm mắt.
Trên đỉnh núi Nưa nên thơ và quyến rũ này, ngoài động Am Tiên, Giếng Tiên, Bàn cờ Tiên, Vườn Thuốc Tiên và Vườn Đào Tiên mà sử sách và truyền thuyết đã nhắc đến như một chốn tu tiên đắc đạo, còn có ngôi chùa cổ gọi là chùa Am Tiên (sách Đại nam nhất thống chí có chép về chùa này), đền chúa Thượng Ngàn (dân gian cho rằng đó là Bà Triệu hoá thân ) và miếu Tu Nưa, thờ vị đạo sĩ thời Trần – Hồ. Ngoài ra ở đây còn có cả một ban thờ lộ thiên thờ thần núi Tản Viên. Năm 2009 thắng cảnh này được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
       Theo tín ngưỡng dân gian, huyệt đạo trên đỉnh núi Nưa là huyệt khí thiêng- là nơi giao hòa linh khí trời đất. Ngày mùng 9 tháng giêng là ngày mở cửa Trời, chính hội từ 15 tháng giêng đến 20 tháng giêng. Người dân các nơi hành hương về đây cầu cho quốc thái dân an, sức khỏe, hạnh phúc, công danh. Khách du lịch vẫn đến huyệt thiêng suốt các tháng trong năm.
       Bên cạnh các di tích trên, còn các địa danh có trong truyền kỳ: ” Truyện người tiều phu núi Na” của Nguyễn Dữ thế kỷ XVI có liên quan đến chúa Hồ Hán Thương mà có lẽ người tiều phu ấy chính là kẻ sĩ đắc đạo; vết tích của ẩn sĩ Trần Tu hiệu Hoàng Mi tiên sinh đời Trần- gặp cuộc loạn đến tu trên đỉnh núi; vết tích nhà ở của Nguyễn Thượng Hiền dưới chân núi…Sự linh thiêng trên đỉnh Ngàn Nưa còn lưu truyền trong dân gian câu:
Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến!”,.
tạm dịch: 
Một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ!”.
Các ẩn sĩ có rất nhiều thơ phú, đều thuộc về loại văn chương lãng mạn của Đạo học, giàu tâm lý và nghệ thuật.
Bài thơ thứ nhất bày tỏ cái lý tưởng sống ngoài vòng lễ giáo phép tắc của nhân quần xã hội đã đặt ra để trói buộc con người, coi rẻ tất cả giá trị nhân văn, hoàn toàn buôn thả theo thiên nhiên, không lo nghĩ tính toán “được-mất-sống-chết”. Bởi có cái tâm trạng vô tâm, quên mình vào thiên nhiên, không nghĩ việc đã qua, không mong việc sắp tới, không thắc mắc tính toán việc hiện tại nên: 

…Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,
Rêu phủ bia tàn. 
Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước, 
Giấc điệp hãy mơ màng
Đến hai bài sau (Thích ngủ và Thích cờ), đề trên vách am, thì bày tỏ hai phương diện mâu thuẫn biện chứng của thực tại Sống: “tĩnh” và “động”. Thích ngủ, nghĩa là muốn yên ổn, thư thái tâm hồn, thích hợp với bản tính tự nhiên. Nhưng nhà xử sĩ Núi Na còn thích cờ nữa, vì thế sự chẳng khác chi cuộc cờ, biến hóa không thường như mây với gió. Đấy là phương diện động của thực tại. Theo đấy thì nhà xử sĩ trên có lý tưởng muốn thể hiện cả hai phương diện của một thực tại sống, cả “thể” lẫn “dụng”, chứ không hẳn một mặt thiên lệch mà quên đời…. Là danh sơn kỳ thú nổi tiếng nên từ xưa núi Nưa đã trở thành nơi hò hẹn của các kẻ sĩ và tao nhân mặc khách. Nhiều người đã lấy núi Nưa làm đề tài sáng tác, ngâm vịnh, mà hiện nay vẫn còn những bài thơ về núi Nưa đặc sắc như: “Na Sơn ca”; “Bài ca thích ngủ” và “Bài ca thích cờ” của Nguyễn Dữ thế kỷ thứ XVI… v.v… 
     Cổng Nghinh môn được xây dựng từ thời Vua Tự Đức, đây là cổng đền có kiểu dáng kiến trúc giống cổng Nghinh môn các đền đài lăng tẩm ở Huế. Mặt trước mặt sau Nghinh môn trang trí những bức tranh sơn thuỷ đắp nổi, tô mầu cảnh núi sông đất nước, linh vật rồng phượng và hoa lá cúc dây hình triện.

    
Cổng tam quan ngôi đền Na Sơn ngay dưới khu chân núi Nưa-  trước và sau khi tôn tạo để vào mùa lễ hội xuân 2013.

 
Đường lên đỉnh huyệt đạo vô cùng cheo leo và hiểm trở.


Có những chỗ dốc cua tay áo như thế này, trập trùng…



Đây vốn là con đường mòn đi lấy củi của những người tiều phu xưa



 . đầy lau lách trắng xóa giờ đây đang được mở rộng


  Đi trong sương mây mù mịt bằng xe chuyên dùng Uoat để biết cảm giác mạnh, xe luôn cài số 1.


 
Cũng có thể trải nghiệm xe đua như thế này cùng với bạn “ phượt”.

 Rất nhiều các cấp lãnh đạo của Đảng và nhà nước đã đến thăm, trồng cây lưu niệm và đặt đá ở đây.

Người ta đặt xung quanh chùa và cả con đường các cây cổ thụ quý và những phiến đá có hình thù đẹp mắt.


  Phía sau chùa Tiên có một ban thờ ngoài trời. Không thấy có biển đề tên, nhưng xem qua trang phục và thần thái pho tượng, thấy toát nên vẻ đạo cốt giống như một vị tiên của Đạo Lão, có người nói đây là tượng Sơn Thần ( thần núi).



 
   Giếng Tiên- nguồn nước mát trên đỉnh ngàn Nưa không bao giờ cạn. Ai lên đến huyệt đạo cũng muốn mang về một can nước lấy may, để thờ cúng và rửa mặt cho da dẻ thêm phần sáng sủa đẹp đẽ.



 
Sương mù đậm đặc, phủ trắng không gian. Từ rất sớm khách hành hương đã có mặt ở cổng nơi dẫn tới huyệt đạo 

Hai bên đường đi là vườn đào, sắc đào làm ấm hồng một khoảng không trắng bạc.


Lối vào là một con đường nhỏ mờ sương, hai bên rào bằng nứa tép rất thơ mộng



Cổng vào của huyệt đạo


Toàn cảnh huyệt đạo…

…là một khoảng đất rộng được rào nứa xung quanh , chừa ra một lối vào nhỏ.

Khí trời thật thoáng đãng tạo cảm giác vô cùng sảng khoái.

Toàn cảnh huyệt đạo giữa đỉnh ngàn Nưa.

Sau khi thắp hương, khách hành hương đứng giữa trời đất vái 4 phương, họ ngồi xuống đặt tay lên 3 phiến đá xếp giữa huyệt đạo, nhắm mắt lại và lầm rầm cầu xin. Được biết, họ làm như vậy với mong muốn được tiếp thêm một chút năng lượng, sinh khí từ trời đất vào cơ thể

hoặc đặt bàn tay vào phiến đá giữa huyệt đạo với mong muốn được truyền năng lượng từ trời đất.
 

  
 Một điều kỳ diệu và vô cùng kỳ lạ là : Đứng trong giới hạn của huyệt đạo, thả lỏng cơ thể , nhắm mắt lại thì sẽ thấy một toàn bộ là một màu đỏ lựng bao trùm, màu đỏ ấy tiếp tục đỏ rực lên và chuyển dần sang màu vàng rồi màu xanh nhạt và sau nữa là màu trắng với các hạt bụi li ti lơ lửng…

 Nhưng chỉ cần bước chân ra khỏi vòng rào giới hạn huyệt đạo, nhắm mắt lại thì mọi cái trở nên bình thường, không có gì xảy ra cả. Nếu không tự mình trực tiếp trải nghiệm bằng tâm thức thì khó lòng mà tin được.

 Mời các bạn xem bản đồ đường đi đến Huyệt đạo

Mời các bạn xem đường (bấm xem) Video về huyệt đạo: 
INTERNET

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *